Các loài thằn lằn biển Mosasaurs, với tên Tiếng Việt là Thương Long, chúng sống ở thời kỳ cuối kỷ Phấn trắng bao gồm Tylosaurus, Globidens, Platecarpus, Dallasaurus, Halisaurus, Plotosaurus, Pannoniasaurus, Prognathodon, Mosasaurus – loài thằn lằn chủ đạo cũng là tên của họ thằn lằn này.
1Tylosaurus
Trong khi loài khủng long Tyrannosaurus được mệnh danh là loài khủng long săn mồi trên cạn bá đạo nhất vào cuối kỷ Phấn Trắng thì ở dưới biển chúng ta có loài Tylosaurus này. Đặc biệt ở vùng Nội biển tây kỷ Phấn Trắng (vùng biển chìm giữa Mỹ và Canada ngày nay). Kích thước khủng của loài Tylosaurus dễ dàng chiếm ưu thế cao nhất trong các loài thằn lằn ăn thịt, chúng sẽ không ngại ăn thịt bất cứ loài nào. Bằng chứng hóa thạch đã chứng minh điều này bằng cách soi xét dạ dày của chúng bao gồm các loài cá, cá mập, các loài chim không bay Hesperornis, các loài thằn lằn to lớn khác như Plesiosaurs, thậm chí cả họ hàng Mosasaurs của chúng.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Tylosaurus
Chúng có chiều dài xếp vị trí thứ 2 trong họ Mosasaurs với chiều dài 15m và cân nặng 20 tấn. Chúng bá chủ vùng Bắc Mỹ vào cuối kỷ phấn trắng, cách đây 66 – 77 triệu nặm về trước.
2Globidens
Mặc dù Globidens không phải là loài mosasaur duy nhất thích nghi với chế độ ăn động vật giáp xác, nhưng bộ răng của chúng được cấu tạo chuyên dụng cho việc đó. Thay vì những chiếc răng hình nón sắc nhọn. Globidens có hàm răng tròn với phần trên hình bán cầu giúp chúng đàn hồi tốt hơn khi nhai vỡ vỏ các loài động vật, mỗi khi hàm di chuyển lên xuống, mỗi chiếc răng sẽ đập vào vỏ của con mồi như chiếc búa, phá vỡ lớp vỏ để Globidens có thể lấy phần thịt mềm bên trong.
Răng và hàm khỏe mạnh của Globidens sẽ cho phép nó giải quyết con mồi với vỏ cứng như bọc thép, mạnh và nặng hơn cả loài Prognathodon.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Globidens
Globidens có chiều dài khoảng 6 mét và nặng khoảng 1-2 tấn. Nó sống ở vùng biển Bắc Mỹ và Châu Phi trong thời kỳ cuối kỷ Phấn trắng, khoảng 66-84 triệu năm trước.
3Platecarpus
Khi nghiên cứu loài khủng long Platecarpus đã làm sáng tỏ thêm nhiều điều về họ thằn loằn Mosasaurs hơn bất kỳ loài nào khác ở trong họ. Một phần nhờ số lượng lớn hóa thạch loài Platecarpus đã được phát hiện. Một số mẫu vật của Platecarpus được bảo quản tốt đến mức chúng thực sự tiết lộ về mô mềm của các bộ phận cơ thể và cơ quan nội tạng.
Platecarpus từ lâu đã được nghi ngờ có đuôi ngạnh móc, tương tự như loài Ichthyizards nguyên thủy. Một mẫu vật Platecarpus được phát hiện có phần mô mềm cho thấy chúng có thùy đuôi hình lưỡi liềm. Chỉ riêng phát hiện này đã khiến nghiên cứu về họ thằn lằn Mosasaur bị đảo lộn. Platecarpus phát triển đuôi bơi mạnh mẽ hơn để đẩy mạnh tốc độ săn mồi của chúng. Vì vậy chúng sẽ săn các con mồi lớn, cần tốc độ cao để phục kích. Chúng cũng dễ dàng săn các con mồi bơi chậm hơn.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Platecarpus
Platecarpus là một trong những thành viên nhỏ hơn của họ thằn lằn Mosasaur. Nó phát triển đến chiều dài khoảng 4-5 mét và nặng khoảng 1 tấn. Nó sống ở vùng biển Bắc và Nam Mỹ, và ở Úc vào cuối thời kỳ kỷ Phấn trắng, khoảng 84-86 triệu năm trước.
4Dallasaurus
Dallasaurus là một khám phá thú vị, đặc biệt đối với những người yêu thích các loài bò sát biển Mosasaurs. Các đặc điểm về bộ xương của Dallasaurus đã giúp củng cố thêm lý thuyết rằng các loài mosasaur tiến hóa từ các loài bò sát trên cạn như loài kỳ đà trong giai đoạn đầu và giữa kỷ Phấn trắng.
Dallasaurus được coi là một loài thằn lằn liên kết tiến hóa tạm thời bởi cơ thể và đuôi của nó cho thấy sự thích nghi với bơi lội, đôi chân vẫn có sự phát triển lớn hơn để đi bộ trên đất liền. Điều này cho thấy Dallasaurus sống ở vùng nước ven biển, hoặc vùng nước cửa sông nơi chúng có thể tận dụng nguồn thức ăn dồi dào dưới nước nhưng vẫn phải quay về đất liền, khi chúng cần nghỉ ngơi và săn bắt bên các vùng đầm phá ở ven biển.
Hành vi di chuyển như vậy giúp cho Dallasaurus tiến dần tới việc săn bắt và tìm thức ăn ở các vùng biển sâu hơn. Sau đó chúng phát triển đôi chân thành vây hỗ trợ hoàn cho cuộc sống dưới biển.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Dallasaurus
Dallasaurus là thành viên nhỏ nhất trong gia đình Mosasaur chỉ dài khoảng 1 mét. Nó sống ở vùng biển Bắc Mỹ trong thời kỳ giữa kỷ Phấn trắng, khoảng 90-94 triệu năm trước.
5Clidastes
Kích thước nhỏ bé của loài thằn lằn Clidastes cho thấy nó chuyên săn những con mồi nhỏ và nhanh nhẹn hơn như loài cá ,đòi hỏi kẻ săn mồi phải có thân hình thật nhanh nhẹn.
Clidastes có thể là kẻ săn mồi ven biển và dưới biển nông đầm phá, nơi có nhiều loại con mồi nhỏ hơn cho chúng đồng thời cũng tránh được những loài ăn thịt khác.
Clidastes có cấu trúc đầu tam giác kéo dài giúp chúng hướng đôi mắt nhìn rõ hơn về phía trước so với hai bên thân. Hàm răng của chúng mọc sắc nhọn và hướng ngược vào trong miệng giống như những chiếc móc câu, giúp chúng giữ chặt con mồi. Chúng cũng có thêm một hàm răng phụ giúp nuốt được những con mồi lớn hơn.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Clidastes
Với kích thước trung bình dài tới 4 – 6 mét và trọng lượng ước tính chỉ vài trăm pound, Clidastes nhỏ bé khi so sánh với những con Mosasaur lớn hơn như Mosasaurus và Tylosaurus. Nó sống ở vùng nước nông ở Bắc Mỹ trong thời kỳ cuối kỷ Phấn trắng, khoảng 72-86 triệu năm trước.
6Halisaurus
Halisaurus lần đầu tiên được đặt tên vào năm 1869, giai đoạn trong cổ sinh vật học Mỹ được gọi là “cuộc chiến xương”, một cuộc tranh cãi về xương của loài này với một số loài thằn lằn khác. Các cá thể có chiều dài từ 3 đến 4 mét, Halisaurus có đầu nhỏ hơn trong thang đo kích thước của họ thằn lằn Mosasaur. Chúng không phải là kẻ săn mồi đỉnh cao, chúng chỉ ở mức săn mồi tầm trung, săn bắt cá và mực ở vùng biển rộng.
Với sự phân bố toàn cầu trải dài từ Peru đến Bắc Mỹ, khắp Châu Phi và Bắc Âu, thời kỳ sinh sống trải dài từ kỳ Campanian cho đến kỳ Maastrichtian của kỷ Phấn trắng, Halisaurus có thể được ghi nhận là một trong những chi Mosasaur phát triển thành công.
7Plotosaurus
Plotosaurus đại diện điển hình cho họ thằn lằn Mosasaur, chúng thích nghi bơi lội tốt hơn so với hầu hết họ hàng được biết đến của chúng. Cơ thể Plotosaurus được sắp xếp ổn định, phần cứng cáp ở phía trước giúp chúng uyển chuyển hơn lúc bơi lội. Các chi hình mái chèo giúp giảm lực cản khi bơi và phần đầu dài và thanh mảnh. Một đặc điểm nổi bật khác của Plotosaurus là các lỗ mũi lớn tạo giúp việc đưa không khí vào phổi nhanh hơn, cho thấy chúng cần lặn sâu để bắt các con mồi ở dưới đó.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Plotosaurus
Một trong những thành viên lớn nhất của gia đình Mosasaur, Plotosaurus phát triển chiều dài khoảng 13 mét và nặng khoảng 5 tấn. Chúng sống ở vùng biển Bắc Mỹ trong thời kỳ cuối kỷ Phấn trắng, khoảng 66-72 triệu năm trước.
8Pannoniasaurus
Pannoniasaurus đã làm nên lịch sử trong lĩnh vực nghiên cứu thằn lằn Mosasaur khi chúng đánh dấu lần đầu tiên một loài Mosasaur được tìm thấy trong một mỏ hóa thạch nước ngọt. Là một loài bò sát, chúng thở bằng phổi mà không phải bằng mang như loài cá, việc di chuyển sống từ vùng biển sang vùng nước ngọt vì vậy cũng không gặp trở ngại gì. Đồng thời chúng có thêm nhiều năng lượng khi bơi lội trong vùng nước ngọt. Chúng được cho là đáp ứng sống tại các lòng sông và suối nước ngọt vì thói quen ngược dòng nước lần theo mùi vị của xác con mồi chết ở đầu nguồn nước.
Kích thước và vị trí địa lý của loài Pannoniasaurus
Pannoniasaurus có chiều dài khoảng 6 mét và nặng vài trăm kilogam Nó sống ở vùng biển châu Âu vào cuối kỷ Phấn trắng, khoảng 84-86 triệu năm trước.