Lợn rừng là một loài trong họ lợn hoang dã, chúng là loài bản địa của những khu rừng rậm ở Châu Âu, khu vực đông bắc Châu Mỹ và chúng cũng sinh sống ở khắp Châu Á. Lợn rừng có sự phân bố cực kỳ rộng rãi với số lượng phân loài ước lượng lên tới 25. Rất khó để phân loại tất cả các phân loài, bởi vì chúng rất dễ phối giống, vì vậy chúng được các nhà khoa học công nhận có bốn phân loài chính dựa vào sự phân bố theo vị trí địa lý. Chúng có chung những đặc điểm kích thước bề ngoài dễ nhận biết, nhưng có sự đa dạng về màu sắc dựa theo vùng sinh sống. Lợn rừng là loài cực kỳ dễ dàng thích nghi với đa dạng môi trường sống, chúng có thể ăn được gần như mọi thứ, chúng không chỉ chạy nhanh mà còn bơi lội rất giỏi . Một số tên tiếng Anh phổ biến dành cho lợn rừng như European Wild Pigs, Hogs hay Boars.
Phân loại lợn rừng và sự tiến hóa
Lợn rừng là loài động vật có vú có kích thước trung bình, với chiếc đầu và thân trước to lớn, phần thân sau nhỏ lại. Chúng có lớp lông dày bên ngoài, bên dưới lớp lông dày to là lông nhỏ phủ kín cơ thể. Lợn Rừng có nhiều màu sắc từ nâu, đen, đổ hoặc xám tối, tất cả phụ thuộc vào vị trí địa lý mà chúng sinh sống. Ví dụ như những cá thể lợn rừng ở Tây Âu thường có màu nâu, còn ở các thể lợn ở khu rừng Đông Âu sẽ có màu đen nhánh. Lợn Rừng có thị giác rất kém bởi đôi mắt của chúng khá nhỏ, nhưng chúng lại có chiếc mõm dài thẳng, giúp chúng đánh hơi rất tốt.
Lối sống của Lợn Rừng
Lợn Rừng là loài động vật sống về đêm, chúng thường chỉ kiếm ăn trong đêm tối. Chúng dành khoảng 12 giờ vào ban ngày chỉ để ngủ ở trong hang hoặc tổ quây lại bằng lá cây. Lợn rừng cái thường tương đối hòa đồng, chúng sống trong lãnh thổ không bó buộc với 6 đến 30 cá thể. Đàn lợn thường có các cá thể cái đang chăm con, chúng có thể sinh hoạt kiếm ăn lẫn lộn với lợn cái của đàn khác. Nhưng đối với lợn rừng đực thường sống đơn lẻ trong gần cả năm, cho đến khi mùa sinh sản bắt đầu chúng sẽ sống chung giữa hai hoặc nhiều đàn khác nhau cùng với các con đực khác. Lợn rừng đực sẽ chiến đấu cạnh tranh nhau giành quyền giao phối với lợn cái.
Sinh sản và vòng đời của Lợn Rừng
Sau khi giao phối, lợn rừng cái sẽ để khoảng 4-6 lợn con. Tổ của chúng thường được vây bằng lá cỏ và rong rêu. Lợn cái thường nằm cùng con trong một vài tuần để bảo vệ chugns khỏi các loài vật ăn thịt khác. Lợn rừng con có màu sắc và hình dáng vô cùng đặc biệt, chúng có màu lông nâu sáng, hòa lẫn với những đường sọc trắng nâu lẫn lộn kéo dài khắp trên lưng. Những đường sọc trên lưng lợn con sẽ biến mất sau khi chúng đạt 3-4 tháng tuổi, bộ lông sọc đó giúp lợn con hòa lẫn ngụy trang với thềm rừng nhiều lá khô rất hiệu quả. Khi được hai tháng tuổi, lợn con bắt đầu khám phá xung quanh tổ để nghịch và tìm thức ăn, Chúng sẽ trưởng thành vào khoảng 7 tháng tuổi và màu lông chuyển sang đỏ hoàn toàn. Lông lợn rừng chuyển sang màu sắc của lợn trưởng thành khi đạt hơn 1 năm tuổi.
Chế độ ăn uống và Con mồi của Lợn rừng
Lợn rừng là động vật ăn tạp, chúng chỉ yếu ăn thực vật. Thực vật chiếm tới 90% khẩu phần ăn uống của lợn rừng, bao gồm lá cây quả dại và trái rụng, ngoài ra chúng còn ăn rễ và củ cây. Chúng còn sống gần khu vực có nhiều hoa màu hay hạt rừng sồi giàu protein. Lợn rừng thường sung thêm dinh dưỡng bằng trứng chim, bò sát, sâu hay thậm chí là rắn. Đôi khi chúng dọn hết phần thức ăn thừa của những loài động vật ăn thịt khác bỏ lại.
Động vật thiên địch của Lợn rừng và Các mối đe dọa đối với chúng
Do sự phân bố cực kỳ rộng trên thế giới, Lơn rừng là con mồi của rất nhiều loài động vật với đủ loại kích cỡ. Những loài họ mèo lớn như báo hoa mai, linh miêu hay hổ nằm trong số những loài săn lợn rừng, cùng với đó là chó sói, gấu và con người. Mặc dù số lượng ngoài tự nhiên của lợn rừng đã suy giảm khá nhiều ở một số vùng, nhưng có những vùng như ở Châu Âu, Hà Lan, hay Pakistan thì số lượng của chúng đang tăng lên rất nhanh. Nguyên do có thể ở khu vực chungs sinh sống không có loài vật săn mồi, và sự đa dạng nguồn thức ăn dẫn đến sinh sản nhanh.
Thông tin và Đặc điểm của Lợn rừng
Chiếc mõm của lợn rừng là một đặc điểm đặc trưng nhất của chúng. Mõm của chúng có phần đĩa sụn ở cuối, cho phép lợn rừng có thể vừa đánh hơi vừa ủi thức ăn. Tất cả các loài lợn rừng đều có răng nanh lớn ở hàm dưới. Con đực thường to lớn hơn con cái, và chúng có một chiếc răng nanh ở môi trên có nhiệm vụ làm sắc cạnh cho răng nhanh môi dưới.
Giới | Animalia |
Ngành | Chordata |
Lớp | Mammalia |
Bộ | Carnivora |
Họ | Mustelidae |
Chi | Lutra |
Loài | Rái cá |
Tên Khoa Học | |
Tên thường gọi | Rái cá |
Tên khác (Tiếng Anh) | Lutra Canadensis |
Nhóm loài | Động vật có vú |
Phân bố | |
Sinh cảnh | Sông ngòi, Ao, Hồ, Suối,Bờ Biển |
Màu sắc | Nấu trắng, pha xám sạm |
Kích thước | 76-91cm (30-36in) |
Cân nặng | |
Tốc độ | 11km/h (7mph) |
Chế độ ăn | Động vật ăn thịt |
Con mồi | Cá, Cua Ếch |
Kẻ săn mồi | Chim săn mồi, Cáo, Chó Sói |
Lối Sống | Sống đơn độc |
Hành vi | |
Tuổi Thọ | 15 - 25 năm |
Tình Trạng Bảo Tồn | Đang bị đe dọa |
Số lượng ước tính | |
Đặc điểm nhận biết | Cơ thể dài, thon gọn, đuôi phẳng |
Fun Facts |