Các động vật có vú thời kỳ tiền sử

0
17415

Giới thiệu về các loài động vật có vú thời tiền sử như tê giác lông mượt, sư tử và báo cheetah ở châu mỹ. Các loài linh cẩu và cả lợn rừng cổ đại.

1Tê giác lông mượt Coelodonta

Hình ảnh loài Tê giác lông mượt Coelodonta

Coelodonta là một trong những động vật có vú đại diện cho “thời kỳ băng hà”, chúng được gọi với cái tên Tê giác lông mượt. Coelodonta giống như những loài tê giác châu Phi to lớn mà chúng ta biết ngày nay, điểm khác biệt là bộ lông bao trùm cơ thể nó. Đây là sự thích nghi sinh tồn chính của loài tê giác lông mượt sống ở toàn bộ vùng lục địa Á-Âu trong hơn 2 triệu rưỡi năm.

Đến hiện tại chúng ta vẫn chưa biết rõ thức ăn của chúng là loại cây cỏ nào. Một số cho rằng chúng ăn cỏ giống như loài bò, một số khác nhận định chúng ăn là các loài cây thấp.

Với lớp lông dày chúng đáp ứng được cuộc sống của thời kỳ băng giá, không khí được giữ lại lâu hơn ở dưới lông, giúp thân nhiệt được ổn định và ấm hơn.

Kích thước cơ thể và vị tria địa lý của loài Tê giác lông mượt

Kích thước của loài tê giác lông mượt so với người cáo 1,8m

Coelodonta là một loài động vật có vú lớn có chiều dài khoảng 4-5 mét. Giống như tê giác thời hiện đại, tê giác lông mượt rất khỏe mạnh và nặng khoảng 2-3 tấn. Nó sống ở châu Âu, Nga và châu Á trong thời kỳ cuối Thế Pliocen (thế thứ hai của kỷ Tân Cận), khoảng 3-4 triệu năm trước.

2Chó gấu Amphicyon

Amphicyon được biết đến với cái tên chó gấu, chúng được gọi như vậy vì cơ thể to lớn vô cùng mạnh mẽ với vẻ ngoài của loài gấu, mặc dù đầu chúng trông giống chó hơn. Dù vậy chúng thực sự không phải là loài chó, tuy có sống cùng với các loài liên quan đến họ nhà chó.

Chúng là loài săn mồi thống trị vùng đất Bắc Mỹ cho đến khi xuất hiện những kẻ săn mồi mới và các loài vật họ mèo. Một số nhà nghiên cứu cho rằng chúng là loài ăn tạp nhưng có xu hướng ăn thịt nhiều hơn. Với kích thước khá lớn khiến chúng có khả năng áp đảo nhiều con mồi tiềm năng, đặc điểm cơ thể giúp chúng đánh vật con mồi xuống đất.

Kích thước và vị trí địa lý của loài chó gấu Amphicyon

Kích thước của loài chó gấu

Amphicyon là một loài động vật săn mồi có vú khá lớn với chiều dài khoảng 3-4 mét và nặng gần 600kg. Chúng sống ở Châu Âu, Trung Đông, Châu Á, Bắc Mỹ và Nam Phi trong thời kỳ đầu Miocene, khoảng 20-23 triệu năm trước.

3Quái thú khủng khiếp Deinotherium

Hình ảnh minh họa loài Hai điều làm cho Deinotherium.

Hai điều khiến cho Deinotherium nổi bật so với loài voi là hai chiếc ngà hướng xuống và uốn cong lại theo hình vòng cung, đầu mũi hướng về phía bàn chân. sự sắp xếp cơ thể kỳ lạ này đã gây rất nhiều trở ngại cho các nhà cổ sinh vật. Họ đã sắp xếp nhầm đảo ngược hướng của chiếc ngà.

Trong khi voi và voi ma mút thường dùng ngà để lấy thức ăn thì một số giả thuyết cho rằng Deinotherium dùng ngà để đào bới các loại củ dưới đất, hoặc móc các cành cây kéo xuống để chiếc vòi dễ lấy lá hơn

Kích thước và vị trí địa lý của loài Deinotherium

Kích thước của loài Deinotherium rất khổng lồ! Nó cao từ 4-5 mét và dài khoảng 7 mét. Ước tính trọng lượng khoảng 11 tấn. Nó sống ở Châu Phi, Châu Âu và Châu Á trong thời kỳ Pliocene, khoảng 1-4 triệu năm trước.

4Linh cẩu hang động

Linh cẩu hang động, hay còn được gọi là linh cẩu đốm thời kỳ băng hà. Đúng với tên gọi, chúng sống ở trong hang, đôi khi khí hậu tốt hơn, chúng cũng sống ở ngoài vùng thông thoáng. Chúng đã trú ẩn trong hang để tránh khỏi điều kiện khí hậu tồi tệ nhất trong thời kỳ băng giá của kỷ băng hà Pleistocene.

Đây là một môi trường an toàn hơn cho chúng để nuôi con, cũng như kéo xác và xương động vật về hang để gặm nhấm lúc rảnh rỗi. Linh cẩu hang động là động vật săn mồi, kiêm việc ăn xác thối của vùng đồng bằng giống y hệt như họ hàng chúng ngày nay. Trong khi linh cẩu được biết đến nhiều hơn với hành vi ăn cắp con mồi của loài khác, thì linh cẩu hang động tự săn bắt những con mồi cho mình.

Linh cẩu hang có mối liên hệ mật thiết với loài vượn nhân Neanderthal, họ hàng liên quan chặt chẽ với tổ tiên của người hiện đại. Khu vực xung đột giữa vượn nhân Neanderthal và linh cẩu hang động là khu vực có những chiếc hang, hai loài luôn cạnh tranh để chiếm được hang ổ trú ẩn tốt nhất. Đã có bằng chứng về sự tiếp quản sử dụng hang động khi một trong hai loài rời bỏ, thì loài kia sẽ thay thế.

Kích thước và vị trí địa lý của loài linh cẩu hang động

Linh cẩu hang động là một loài săn mồi lớn, cao khoảng 1 mét ở vai và dài khoảng 1,5 mét. Ước tính trọng lượng của linh cẩu hang động là khoảng 225kg. Nó sống ở châu Âu và châu Á trong thời đại Pleistocene, khoảng 500.000 đến 2 triệu năm trước.

5Lợn trâu Entelodon

Lợn trâu Entelodon hay còn được gọi là lợn sát thủ, cùng với loài lợn Daeodon, chúng tung hoành khắp khu vực Bắc Mỹ. Chúng là sinh vật có kích thước lớn nhất trong họ lợn sát thủ Entelodont.

Sự phân bố rộng rãi của các loài lợn trâu Entelodon trên khắp lục địa Á-Âu cho thấy rằng chúng là loài động vật sinh sống rất thành công. Thành công này có thể là nhờ chế độ ăn tạp, nghĩa là Entelodon có khả năng chuyển đổi và thích nghi với các nguồn thức ăn khác nhau. Ngoài ra, kích thước to lớn của chúng khiến ít khi bị loài khác ăn thịt.

Kích thước và vị trí địa lý của loài Lợn trâu Entelodon

Entelodon là loài động vật có vú lớn có chiều dài khoảng 3 mét, cao khoảng 1 mét rưỡi và nặng khoảng 455kg. Chúng sống ở châu Âu và châu Á trong thời đại Paleogen, khoảng 28-41 triệu năm trước.

6Linh cẩu răng Hyaenodon

Hình ảnh minh họa loài Linh cẩu răng Hyaenodon

Mặc dù được gọi là linh cẩu răng nhưng chúng chỉ có chung với loài linh cẩu ngày nay ở hai đặc điểm là động vật có vú và chuyên ăn thịt. Hyaenodon là kẻ săn mồi hàng đầu trong thời đại của nó với kích thước cơ thể to lớn. Chìa khóa thành côngcủa chúng là chiếc đầu lớn, so với các loài động vật ngày nay thì nó quá lớn, khó tương xứng với cơ thể.

Các gai thần kinh của đốt sống lưng trước mở rộng nhằm làm tăng gắn kết các cơ cổ, giúp hộp sọ có khả năng to lớn hơn bình thường.

Trong các giác quan của Linh cẩu răng, khứu giác điểm mạnh nhất của chúng. Hyaenodon theo dõi con mồi bằng mùi hương, chúng có thể xác định con vật nào ốm và yếu hơn những con khác.

Kích thước và vị trí địa lý của loài Linh cẩu răng Hyaenodon

Hyaenodon là loài săn mồi lớn sống ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Châu Phi trong thời đại Paleogen, khoảng 20-33 triệu năm trước. Nó có chiều dài khoảng 2 mét và nặng khoảng 455kg.

7Báo Cheetah Châu Mỹ ‬Miracinonyx

Hình ảnh minh họa loài báo cheetah châu mỹ

Chúng thường được biết đến với tên gọi American Cheetah, loài báo ‬Miracinonyx được cho là tổ tiên của loài sư tử núi cougar ở Châu Mỹ. Chúng là chuyên gia săn mồi tốc độ cao. Với một khuôn mặt ngắn, khoang mũi mở rộng cho phép chúng hít được nhiều không khí vào phổi trong khi chạy. Điều này sẽ làm giảm lượng hô hấp yếm khí trong cơ bắp, từ đó sẽ làm giảm sự tích tụ axit lactic, có nghĩa là Miracinonyx có thể chạy nhanh hơn trong thời gian dài hơn khi chúng đuổi theo con mồi.

Ví dụ như lúc chúng ta luyện tập thể thao liên tục, đến lúc nào đó phải tạm dừng lại vì cơ bắp mệt mỏi, đó là do sự tích tụ axit lactic gây ra bởi cơ bắp của bạn không được cung cấp oxy đủ nhanh. Mặc dù báo cheetah châu mỹ có thể tận dụng được tốc độ, nhưng cũng chỉ ở mức hữu hạn, chúng có xu hướng tăng tốc như vận động viên chạy nước rút giai đoạn cuối hơn là chạy marathon với tốc độ cao. Điều này khá giống với báo cheetah ở châu Phi ngày nay.

Báo cheetah Châu Mỹ vẫn phải dùng mưu mẹo để bắt được con mồi, chúng cũng phải ẩn nấp lựa thời điểm tấn công, trốn cuối hướng gió và tận dụng cây bụi. Chỉ khi ở gần mục tiêu, chúng mới tấn công.

Kích thước và vị trí địa lý của loài báo cheetah Châu Mỹ

Báo Cheetah Châu Mỹ có kích thước rất giống với loài báo ngày nay. Nó dài từ 1-2 mét và nặng khoảng 90kg. Nó sống ở Bắc Mỹ trong thời đại Pleistocene, khoảng 10.000-100.000 năm trước.

8Sư tử Châu Mỹ

Sư tử châu Phi có thể chạy với tốc độ cao nhưng cơ thể chúng không được tối ứu cho những cuộc rượt đuổi kéo dài, và sẽ bỏ cuộc nếu con mồi chạy xa quá tầm truy đuổi. Còn sư tử Châu Mỹ thì khác, mặc dù có kích thước lớn hơn sư tử Châu Phi, chúng có 4 chân khá tương xứng giúp đạt tốc độ tối đa nhanh hơn.

Cách duy nhất sư tử Mỹ có thể săn mồi hiệu quả là sử dụng chiến thuật phục kích để gây bất ngờ cho con mồi, khiến con mồi không kịp trở tay. Giống như các lòai động vật săn mồi, chúng luôn đứng cuối hướng gió đế ngăn phát tán mùi cơ thể.

Kích thước cơ thể và vị trí địa lý của loài sư tử Châu Mỹ

Sư tử Châu Mỹ có lẽ đã từng sinh sống khắp Bắc Mỹ. Mẫu xương được phát hiện rải rác khắp nơi như ở Canada, dưới các hồ lớn, ở bờ biển phía đông và bờ biển Thái Bình Dương bang California trong khoảng 11.000 đến 100.000 năm trước.